
Doanh nghiệp, người dân đang rất phấn khởi trước tin ngân hàng mở van tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Nhiều ngân hàng thương mại cam kết nỗ lực giữ ổn định mặt bằng
Doanh nghiệp, người dân đang rất phấn khởi trước tin ngân hàng mở van tín dụng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Nhiều ngân hàng thương mại cam kết nỗ lực giữ ổn định mặt bằng
Điều mà nhiều doanh nghiệp, người dân mong mỏi nhất là mặt bằng lãi suất cho vay ổn định trong thời gian dài - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Sẽ giữ được ổn định mặt bằng lãi suất?
Trao đổi với chúng tôi, một lãnh đạo Hiệp hội Ngân hàng cũng cho rằng việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất là rất quan trọng. Nó đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế không chỉ trong năm nay mà cả những năm tiếp theo như Quốc hội, Chính phủ đặt ra.
Chỉ khi lãi suất cho vay được duy trì ổn định ở mức thấp mới giúp doanh nghiệp giảm chi phí vốn, phục hồi sản xuất kinh doanh. "Tuy nhiên, để mặt bằng lãi suất ổn định trong một thời gian dài, NHNN cần có những kịch bản hỗ trợ cho ngân hàng thiếu thanh khoản tạm thời", vị này nói.
Đang có nhiều dự án bất động sản gặp vướng mắc, chưa thể triển khai. Nếu các dự án được gỡ vướng để phát triển, nhu cầu tín dụng sẽ rất lớn, trung bình 2.000 tỉ đồng/dự án.
Bên cạnh đó, các tập đoàn địa ốc đã vượt qua giai đoạn khó khăn, cần nguồn vốn lớn cho giai đoạn phục hồi và chương trình 1 triệu căn nhà ở xã hội cũng sẽ cần nguồn tín dụng lớn.
Ngoài nhu cầu vốn của doanh nghiệp, còn có nhu cầu vốn của cá nhân và hộ gia đình khi hơn 60% tín dụng tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình được dùng cho xây dựng, sửa chữa và mua nhà ở.
Do đó, việc NHNN đã công bố mục tiêu tăng trưởng tín dụng tối thiểu 16% trong năm 2025 và có thể điều chỉnh đã cho thấy tăng trưởng tín dụng đã được "nới room" so với năm ngoái.
Tuy nhiên NHNN cần cân nhắc giảm lãi suất điều hành, tạo cơ sở để các ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay, giúp người dân dễ dàng tiếp cận các gói tín dụng.
* Ông Phạm Nam Phong (chủ tịch HĐQT Vũ Phong Energy Group):
Mong có cơ chế hỗ trợ cho tài chính xanh
Các doanh nghiệp ngành năng lượng mong muốn các tổ chức tín dụng trong nước tạo cơ chế ưu đãi về lãi suất và điều kiện vay vốn áp dụng cho các dự án năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời (mặt đất và áp mái) và điện gió.
Cơ chế về tài chính xanh rất quan trọng để thúc đẩy chuyển dịch năng lượng nhưng vẫn còn những rào cản về lãi suất và điều kiện vay.
Trước đây, các dự án năng lượng tại Việt Nam dễ tiếp cận vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, song do thay đổi niêm yết giá mua bán điện bằng VND thay vì USD như trước nên không dễ để các đơn vị quốc tế cho vay.
Nếu các ngân hàng trong nước có cơ chế hỗ trợ cho tài chính xanh, mạnh dạn cho vay đối với lĩnh vực năng lượng với lãi suất phù hợp, các nhà đầu tư trong nước cũng mạnh dạn tham gia đầu tư vào hạ tầng năng lượng hơn, góp phần vừa đảm bảo an ninh năng lượng vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…
* Ông Lê Hữu Nghĩa (tổng giám đốc Công ty Lê Thành):
Cần đưa vốn vào các dự án phục vụ số đông
Với mục tiêu tăng trưởng cao, dòng tiền sẽ được đẩy mạnh ra thị trường thông qua chính sách tốt về lãi suất. Tuy nhiên, nếu dòng tiền không được kiểm soát tốt, việc bơm tiền vào bất động sản có thể không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Bởi nếu đưa vốn vào các dự án khó phát triển thì phải xử lý nợ xấu và không tạo ra giá trị thực cho nền kinh tế. Điều này có thể gây ra nguy cơ sốt giá trong lĩnh vực đất đai, nhà ở. Do đó cần lựa chọn các lĩnh vực ưu tiên, các dự án mang tính lan tỏa, hướng đến số đông khách hàng để rót vốn vào các dự án này.
* PGS.TS Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP.HCM):
Cần đẩy mạnh xuất khẩu để tăng dư địa nới lỏng tiền tệ
Theo tôi, để thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn, chúng ta không thể phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà phải tập trung vào các yếu tố thực như là nguồn vốn, công nghệ, trình độ lao động, năng suất lao động… Nên đưa chính sách tiền tệ về đúng vai trò của nó là cung ứng tiền theo nhu cầu thực tế của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ không phải là "cây đũa thần" nên chính sách tiền tệ phải là một chính sách trung lập. Sự vay mượn trong ngắn hạn sau này đều sẽ phải trả giá.
Cũng phải lưu ý là không còn nhiều dư địa để nới lỏng tiền tệ, từ đó đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Theo tôi, mấu chốt hiện nay là vấn đề về tỉ giá. Nếu hạn chế được lạm phát và ổn định tỉ giá, Việt Nam sẽ đạt được mục tiêu đề ra là tăng trưởng cao mà lạm phát vẫn ổn định.
Mặt khác, cần phải đẩy mạnh xuất khẩu vì đây là "một mũi tên trúng hai con nhạn". Vì khi xuất khẩu tăng sẽ giúp thu ngoại tệ về để giảm áp lực tỉ giá, giúp chúng ta có nhiều dư địa để tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng.
Có thể nói nếu như chiến lược tăng trưởng của Việt Nam phù hợp với chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, vẫn có thể ổn định được tỉ giá, từ đó ổn định được lạm phát và tạo nhiều dư địa để đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số.
* Ông Suan Teck Kin (giám đốc khối nghiên cứu thị trường và kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB, Singapore):
Phải đẩy mạnh đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng
Việc đạt mức tăng trưởng cao 8% hoặc thậm chí 2 con số là hoàn toàn có thể, như kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc, đặc biệt khi Việt Nam đã có động lực tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2024 với mức tăng trưởng trên 7%.
Tuy nhiên, để Việt Nam đạt mức tăng trưởng trên 7% và tiến tới 8% hoặc cao hơn vào năm 2025 sẽ là một thách thức, do các rủi ro từ chính sách thuế quan của Mỹ có thể ảnh hưởng đến một trong những động lực tăng trưởng quan trọng của Việt Nam - đó là thương mại quốc tế.
Có một số lĩnh vực mà Chính phủ có thể tập trung để tăng cơ hội đạt mức tăng trưởng cao 8% hoặc thậm chí 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030. Dù vậy, tôi cho rằng tốc độ tăng trưởng cần ổn định để tránh tình trạng quá nóng và lãng phí nguồn lực.
Một trong những giải pháp quan trọng là tăng mạnh đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng và giảm tác động từ sự suy giảm trong xuất khẩu và sản xuất.
Để tăng đầu tư công, có thể cần phải chấp nhận tăng vay nợ và sử dụng đòn bẩy tài chính nhiều hơn. Nhưng chính sách tài khóa của Việt Nam dường như đang quá thận trọng, khi Chính phủ đặt mục tiêu giảm tỉ lệ nợ công/GDP từ 35% hiện tại xuống 31% vào năm 2029.