
Nên công khai ICOR các ngành, tỉnh, thành. Trong ảnh: tuyến metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên là một trong những dự án đầu tư công của thành phố - Ảnh: T.T.D.
Báo cáo một số vấn đề mới, quan trọng trong
Sử dụng vốn hiệu quả, tạo động lực tăng trưởng kinh tế từ 8% trở lênĐỌC NGAY
Thứ hai, thiếu cơ chế thống nhất để đo lường và công bố ICOR định kỳ. Hiện nay, chỉ số này chủ yếu được Tổng cục Thống kê tính ở tầm quốc gia, còn cấp địa phương hoặc ngành ít có dữ liệu đầy đủ, do đó ICOR chưa trở thành công cụ giám sát bắt buộc trong quy trình đầu tư công và đầu tư tư nhân.
Thứ ba, hệ thống đầu tư còn phân tán và thiếu minh bạch. Khi chưa có chuẩn mực quản trị dự án, chưa áp dụng công nghệ số hóa trong theo dõi hiệu quả vốn thì việc đo ICOR chính xác gần như bất khả thi.
Kết quả là trong giai đoạn 2016-2020 Việt Nam có hệ số ICOR trung bình khoảng 6,1, cao hơn nhiều nước ASEAN (Thái Lan khoảng 4, Malaysia khoảng 3,5). Điều này có nghĩa là chúng ta đang phải bỏ ra nhiều vốn hơn để đạt cùng một đơn vị tăng trưởng - một dấu hiệu cho thấy hiệu quả đầu tư chưa tương xứng với nguồn lực bỏ ra.
* Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng đề ra mục tiêu duy trì ICOR khoảng 4,5. Theo ông, mức này có khả thi?
- Hoàn toàn khả thi, nhưng cần thay đổi mạnh mẽ trong tư duy và phương thức đầu tư.
Để đạt được mức này, chúng ta cần có 3 điều kiện tiên quyết. Một là tăng năng suất lao động và chất lượng đầu tư. Hiện năng suất lao động của Việt Nam mới chỉ bằng khoảng 60% Thái Lan và 45% Malaysia theo số liệu của ADB năm 2024. Khi năng suất thấp, ICOR sẽ luôn cao, vì cùng một đồng vốn phải "gánh" nhiều chi phí hơn để tạo ra sản phẩm.
Hai là giảm đầu tư dàn trải, nhất là trong đầu tư công. Ba là đẩy mạnh số hóa quy trình đầu tư và áp dụng công nghệ quản trị dự án, từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giám sát giải ngân. Khi có dữ liệu chuẩn hóa và minh bạch, hiệu quả sử dụng vốn mới được đo lường chính xác.
Công khai chỉ số ICOR để tăng giám sát
* Theo ông, có cần công khai chỉ số ICOR của từng ngành, từng địa phương?
- Đây là điều nên được thực hiện như một bước tiến trong cải cách công khai ngân sách và hiệu quả đầu tư công. Tôi cho rằng việc công bố ICOR theo ngành hoặc địa phương có 3 tác động tích cực rõ rệt.
Thứ nhất là tạo áp lực minh bạch và cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương. Khi ICOR được công khai, địa phương nào duy trì được hiệu quả đầu tư thấp, tạo ra nhiều GDP hơn từ cùng lượng vốn sẽ được ghi nhận và thu hút thêm đầu tư.
Thứ hai giúp nhà đầu tư và doanh nghiệp tư nhân có thêm dữ liệu để ra quyết định, tránh đầu tư vào khu vực kém hiệu quả hoặc có chi phí vốn cao.
Thứ ba hỗ trợ cơ quan trung ương giám sát chất lượng chi tiêu công và đầu tư tư nhân theo hướng hiệu quả hơn, tránh lãng phí nguồn lực.
Tất nhiên để khả thi phải chuẩn hóa cách tính ICOR cho từng loại hình đầu tư, tránh so sánh khập khiễng giữa lĩnh vực hạ tầng (vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài) với dịch vụ hoặc công nghệ (vốn nhỏ, vòng quay nhanh). Có thể giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Kiểm toán Nhà nước để thiết lập hệ thống công bố định kỳ.
* Để tăng trưởng trên 10%/năm giai đoạn 2026-2030 và đạt hiệu quả về đầu tư, Việt Nam nên tập trung vốn cho ngành nghề hay lĩnh vực nào?
- Muốn vừa tăng trưởng nhanh vừa đảm bảo ICOR thấp, Việt Nam cần tái định vị chiến lược đầu tư vào 4 lĩnh vực trọng tâm.
Thứ nhất là công nghệ - đổi mới sáng tạo - AI và dữ liệu số. Đây là nhóm ngành có hệ số lan tỏa cao, giúp nâng năng suất của toàn nền kinh tế. Đầu tư 1 đồng vào chuyển đổi số có thể giúp tiết kiệm 3-4 đồng chi phí vận hành, theo ước tính của Ngân hàng Thế giới.
Thứ hai là kinh tế xanh và năng lượng tái tạo. Điều này không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mà còn giúp Việt Nam tuân thủ CBAM, ESG và cam kết Net Zero 2050, qua đó mở rộng xuất khẩu sang thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản.
Thứ ba là hạ tầng logistics và vùng động lực tăng trưởng. Phát triển các vành đai, hành lang logistics liên kết Bắc - Trung - Nam, cảng cạn ICD và chuỗi cung ứng xanh giúp giảm chi phí logistics (hiện đang chiếm 16-18% GDP, cao gần gấp đôi Singapore).
Thứ tư là giáo dục nghề nghiệp và khoa học ứng dụng. Đây là nền tảng năng suất lao động - yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới ICOR. Theo Tổ chức Lao động quốc tế, Việt Nam thiếu hơn 3 triệu lao động có kỹ năng số và công nghệ xanh trong 5 năm tới.