
Dự án nhà máy nhiệt điện khí Nhơn Trạch 3 và 4 - Ảnh: NGỌC AN
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã ký tờ trình, nhấn mạnh sự cần thiết trình Quốc hội ban hành nghị quyết chuyên đề về các cơ chế chính sách để tháo gỡ khó khăn cho phát triển năng lượng quốc gia giai đoạn 2026-2030.
Kéo dài thêm thời gian được bao tiêu 75%
Đối với phát triển các dự án
Chủ đầu tư điện khí Hải Lăng, Quảng Ninh, Ô Môn 2... muốn bao tiêu tới 90%, EVN cùng chia sẻ rủi roĐỌC NGAY
Như vậy với đề xuất mới này, Chính phủ đã giữ nguyên tỉ lệ cam kết bao tiêu trong hợp đồng là không thấp hơn 75% sản lượng điện mà Bộ Công Thương đưa ra trước đó, song kéo dài thời gian áp dụng cơ chế này thêm 5 năm so với đề xuất trước đó là 10 năm.
Với nội dung này, tờ trình của Chính phủ cho hay trong quá trình triển khai cơ chế phát triển các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu, Bộ Công Thương đã ghi nhận nhiều ý kiến của các chủ đầu tư và các đơn vị liên quan.
Theo đó, phần lớn ý kiến nêu khó khăn, kiến nghị tháo gỡ, tập trung việc xem xét áp dụng cơ chế giá điện hai thành phần (giá công suất và giá điện năng); xem xét áp dụng cơ chế cam kết sản lượng điện huy động (cơ chế bao tiêu).
Các doanh nghiệp đề nghị xem xét điều chỉnh sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn theo hướng cao hơn mức 65% (là mức quy định như hiện nay) và kéo dài thời gian áp dụng đến 20 hoặc 25 năm, thay vì chỉ áp dụng trong thời hạn không quá 10 năm như đề xuất ban đầu.
Ủng hộ cơ chế đặc thù, đột phá hơn về sản lượng hợp đồng tối thiểu dài hạn
Theo Chính phủ, Quy hoạch điện 8 điều chỉnh, các dự án nhiệt điện khí sử dụng khí LNG nhập khẩu sẽ là nguồn điện nền quan trọng, góp phần đảm bảo cung cấp điện và hỗ trợ tích cực để tích hợp quy mô lớn các nguồn điện năng lượng tái tạo, hệ thống điện quốc gia trong tương lai, từ đó góp phần đáp ứng cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xã hội và đảm bảo cung cấp điện.
Với các kiến nghị của các chủ đầu tư tại cuộc họp ngày 13-8, Bộ Công Thương đã đánh giá cần thiết rà soát, đề xuất Quốc hội xem xét ban hành quy định cơ chế đặc thù, đột phá hơn về sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn để tháo gỡ khó khăn cho các dự án này trên cơ sở tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với chủ trương, định hướng tại Nghị quyết số 70.
Tuy nhiên đối với các cơ chế chính sách khác mà nhà đầu tư đề xuất, tờ trình nêu rõ phần lớn các cơ chế mang lại lợi ích thiên về chủ đầu tư, trong đó nhiều cơ chế đã từng áp dụng cho các dự án điện BOT trước đây, trong khi đây là những dự án điện LNG nhập khẩu - là dự án điện độc lập IPP.
Vì vậy Bộ Công Thương đánh giá chưa có đầy đủ cơ sở đề xuất áp dụng cho các dự án nhiệt điện khí LNG nhập khẩu giai đoạn này.
Trước đó, một loạt nhà đầu tư đã có đơn kiến nghị gửi tới Thủ tướng Chính phủ đề xuất các cơ chế, chính sách cho các dự án điện khí, do lo ngại những rủi ro trong triển khai dự án. Cụ thể, doanh nghiệp đề xuất nâng mức cam kết bao tiêu sản lượng từ 75% trong dự thảo nghị quyết vừa được Bộ Công Thương trình Chính phủ lên mức 90%, áp dụng cho toàn bộ thời gian hợp đồng mua bán điện.
Cùng đó, dự án được hỗ trợ các cơ chế thanh toán những chi phí cố định, vận hành, bảo dưỡng trong giá điện, bao tiêu nhiên liệu gắn với cơ chế chuyển ngang hợp đồng giá khí sang giá điện, huy động đủ nguồn điện để hoàn thành nghĩa vụ bao tiêu khí.
Các nhà đầu tư cũng mong muốn trong trường hợp Công ty Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO) huy động thiếu làm phát sinh các nghĩa vụ bao tiêu nhiên liệu, thì sẽ được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) thanh toán phần huy động thiếu và hỗ trợ cơ chế thanh toán bằng ngoại tệ theo tỉ giá thực tế cùng một số cơ chế khác.